Bài viết gốc: Two Hundred Years of Cancer Research
Hai tác giả: Vincent T. DeVita, Jr., M.D., and Steven A. Rosenberg, M.D., Ph.D.
PHẦN I: DẪN NHẬP
PHẦN CUỐI: PHÒNG NGỪA, TỶ LỆ SỐNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA UNG THƯ
Không có vấn đề làm thế nào điều trị ung thư có thể trở thành dễ dàng, mà thích hợp hơn bằng ngăn ngừa ung thư. Tuy nhiên, công tác phòng chống là một mục tiêu khó khăn. Hình 2 minh họa ba con đường đáng chú ý để thành công, với những khám phá của các kết nối giữa virus và ung thư, phương pháp ngăn ngừa bằng thuốc, và vai trò của thuốc lá trong bệnh ung thư. Khi nguyên nhân của ung thư được biết đến, phòng chống của nó trở thành một vấn đề trong việc sửa đổi hành vi của con người. Nicotine là một trong những chất gây nghiện nhất được biết đến, và tiếp xúc với khói thuốc lá là nguyên nhân nổi tiếng nhất và thường gặp nhất của bệnh ung thư, nó gây ra khoảng 40% của tất cả các ca tử vong do ung thư. Nó đã được đề xuất vào đầu năm 1912 rằng hút thuốc có thể liên quan đến ung thư phổi(48), với các bằng chứng dịch tễ học trở nên vững chắc trong những năm 1950. Những phát hiện này đã dẫn đến báo cáo của các phẫu thuật viên tổng quát về hút thuốc lá và ung thư đã được ban hành trong năm 1964(49), việc sử dụng các nhãn cảnh báo trên bao bì thuốc lá vào năm 1965, và một lệnh cấm quảng cáo thuốc lá vào năm 1970. Những điều này và sự tích cực khác, cùng việc công bố rộng rãi những biện pháp y tế công cộng, được theo đuổi mạnh mẽ của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ với sự hỗ trợ từ NCI, đã dẫn đến giảm ổn định trong tỷ lệ hút thuốc lá, nó đã giảm một nửa so với năm 1950 ở Hoa Kỳ. Phải mất thời gian cho những tác hại của hàng ngàn hóa chất gây ung thư trong thuốc lá tiêu tan, và tỷ lệ này không giảm cho đến năm 1990thì, tỷ lệ mắc ung thư phổi ở nam giới bắt đầu giảm, tiếp theo sau đó là giảm tỷ lệ tử vong do ung thư phổi bắt đầu năm 1991.
Đến nay, mục tiêu lịch sử của việc tạo ra một loại vắc-xin ngừa ung thư đã được thực hiện đối với ung thư được gây ra do nhiễm virus. Ngay cả khi virus gây ung thư đã được xác định, thì thời gian trôi qua từ khi phát hiện đến lúc phòng ngừa là quá dài. Papilloma virus ở người được phát hiện vào năm 1907, nhưng nó không được biết có liên quan đến ung thư cổ tử cung cho đến năm 1976(50), và vắc-xin để ngăn ngừa nhiễm loại virus này ở các cô gái trẻ đã không được chấp thuận bởi FDA mãi cho đến năm 2000. Virus viêm gan B đã được phát hiện vào năm 1967 và đã quy cho sự liên quan đến ung thư gan vào năm 1974. Đến năm 1984, nó đã được chỉ ra rằng cả hai bệnh viêm gan B và ung thư gan có thể được ngăn ngừa bằng cách chủng ngừa viêm gan B(51). Kể từ sau đó, trong một số nơi trên thế giới, tiêm chủng cho trẻ sơ sinh chống lại vi rút viêm gan B đã trở thành thói quen. Kể từ khi ước tính được khoảng 20% của tất cả các bệnh ung thư bị gây ra bởi virus, tiếp tục phát triển vắc xin có nhiều hứa hẹn.
Những thuốc kháng estrogen có thể ngăn chặn ung thư biểu mô ống ở giai đoạn tại chỗ và giảm tỷ lệ mắc ung thư vú, thuốc ức chế enzyme (finasteride) chuyển hóa testosterone thành Dihydroxytestosterone có thể ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt, và aspirin có thể ngăn chặn ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, phương pháp này không được sử dụng rộng rãi bởi vì số lượng lớn người bình thường sẽ không cần phải tiếp xúc với những chất độc hại tiền tàng để ngăn ngừa một số bệnh ung thư.
Tỷ lệ Sống sót hiện nay và trong tương lai
Bảng 1 cho thấy những thay đổi trong tỷ lệ sống sót tương đối của ung thư liên quan đến những sự kiện khoa học, và hình 1, hình 2 cho thấy những thay đổi trong tầng suất mắc bệnh ung thư và tỷ lệ tử vong, với ký hiệu trong biểu đồ khi tỷ lệ tử vong từ một ung thư cụ thể bắt đầu giảm. Ngay sau khi sự phát triển những phương pháp điều trị thành công trong những năm 1970, tỷ lệ tử vong bệnh cụ thể bắt đầu giảm đáng kể cho bệnh ung thư bạch cầu ở trẻ em và bệnh Hodgkin. Tầng suất mắc các bệnh này là quá thấp để ảnh hưởng đến tỷ lệ chung của tử vong do ung thư. Tỷ lệ chung bắt đầu giảm ngay sau khi giới thiệu những phương pháp chẩn đoán sớm và các biện pháp phòng ngừa và những phương pháp điều trị hỡ trợ hiệu quả cho những bệnh ung thư phổ biến, chẳng hạn như ung thư vú và đại tràng. Tỷ lệ sống 5 năm tương đối cho tất cả các loại ung thư là 38% vào cuối những năm 1960s, ngay trước khi thông qua Đạo luật Ung thư Quốc gia, đến bây giờ đã tăng lên 68%. Đường thẳng dự báo cho thấy tỷ lệ sống sót sẽ tăng lên 80% vào năm 2015(53,54). Nhìn chung tỷ lệ tử vong do ung thư bắt đầu giảm trong năm 1990 tại Hoa Kỳ, đã giảm 24% tổng thể từ khi đó(53, 54). Đường thẳng dự báo đến năm 2015 chỉ ra rằng giảm tổng thể tuyệt đối trong tỷ lệ tử vong ung thư là khoảng 38 điểm phần trăm.
Hình 2: Thời điểm những sự kiện phòng ngừa ung thư
Tuy nhiên, những dự đoán này là gần như chắc chắn đánh giá chưa đúng mức, vì chúng được dựa trên giả định rằng sẽ ít có thay đổi trong việc quản lý của bệnh ung thư từ nay đến năm 2015. Hầu hết giảm tỷ lệ tư vong hiện nay là kết quả của việc thực hiện rộng rãi các công nghệ cũ để chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị, kích thích bởi kinh phí được cung cấp bởi cuộc chiến chống ung thư. Tuy nhiên, phần thưởng lớn nhất từ kinh phí đó dùng cho đầu tư - ứng dụng lâm sàng của những thành quả của cuộc cách mạng phân tử đặc biệt bắt đầu bởi Đạo luật Ung thư Quốc gia - vẫn chưa đến và không thể được đo bằng việc sử dụng các số liệu thống kê hiện hành.
Tương lai
Giải mã trình tự hệ gen của con người vào năm 2000 đã có một ảnh hưởng sâu sắc trên tất cả ngành y. Chi phí cho giải mã trình tự hệ gen làm gợi nhớ đến định luật Moore(*), với chi phí để giải mã bộ gen của con người được giảm một nửa mỗi 2 năm. Không khó để thấy trước một thời gian khi bộ gen cá nhân của một người có thể được giải mã với chi phí thấp nhất khoảng 100 đô la Mỹ, đưa các nghiên cứu di truyền trở thành một xét nghiệm thường quy. Các công ty khởi xướng với mục đích này đã sẵn sàng có mặt.
Giải mã trình tự bộ gen sâu đến thế hệ thứ hai và thứ ba đang bộc lộ sự phức tạp của kế hoạch chi tiết bệnh ung thư và không có nghi ngờ sẽ còn bộ lộ ra những hệ thống mà con người chưa tưởng tượng đến. Tuy nhiên, rõ ràng chúng ta đang phải đối mặt với một tương lai mà trong đó bệnh nhân bị ung thư hoặc những người có nguy cơ gia tăng sẽ có bộ gen được sắp xếp theo trình tự như một vấn đề thường quy, khi so sánh giữa các mô tiền ác tính và mô ác tính. Những bất thường được phát hiện sẽ trở thành mục tiêu của các phương pháp điều trị thuốc tương đối đơn giản, và nếu các hiệu quả được phản ánh từ những gì chúng ta đã thấy trong những năm gần đây với liệu pháp điều trị phân tử đích, khả năng ngăn ngừa hoặc điều trị ung thư trong tương lai sẽ là ấn tượng. Những hậu quả về kinh tế và xã hội của ung thư chuyển đổi thành một căn bệnh có thể chữa được hoặc bệnh mạn tính sẽ có được cả hai cảm giác hài lòng và khó khăn. Tổng quan về 200 năm của lĩnh vực ung thư này cung cấp sự hỗ trợ cho nguyên lý của giá trị của sự kiên nhẫn và đầu tư trong nghiên cứu.
Bài viết được 2 tác giả công bố trên tạp chí www.nejm.org vào ngày 30/5/2012
Ghi chú: Mọi số kèm trong ngoặc đơn là tài liệu tham khảo của các tác giả viết bài này đã được dẫn nguồn trong bài viết gốc. Có thể vào bài gốc để tìm link chèn.
(*) Định luật Moore: là định luật được phát biểu do ông Gorden Moore - một trong những thành viên sáng lập nên Tập đoàn Intel nổi tiếng thế giới về sản xuất chip máy tính. Định luật Moore được phát biểu là: "Số lượng transitor trên mỗi inche vuông sẽ tăng gấp đôi sau mỗi năm". Định luật được phát biểu và công bố trên tạp chí Electronic Magazine ngày 19 tháng 4 năm 1965.
BS Hồ Hải dịch - Tư Gia - 21h19' Chúa Nhựt 03/6/2012
0 nhận xét:
Đăng nhận xét