Dịch thơ Nguyễn Du 34


Bài 33 (014 NTTN)

Ngẫu đề
偶題
Ngẫu đề
白地庭墀夜色空
Bạch địa (1) đình trì dạ sắc không
深堂悄悄下簾櫳
Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm long
丁東砧杵千家月
Đinh đông (2) châm xử thiên gia nguyệt
蕭索芭蕉一院風
Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong
十口啼饑橫嶺北
Thập khẩu (3) đề cơ Hoành Lĩnh bắc
一身臥病帝城東
Nhất thân ngọa bệnh Đế Thành (4) đông
知交怪我愁多夢
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
天下何人不夢中
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung

Dịch nghĩa: Tình cờ đề vịnh

Thềm sân trống trơn chỉ có màu đêm bàng bạc
Nhà sâu thăm thẳm, rèm buông xuống
Dưới bóng trăng của nghìn nhà, tiếng chày dập vải nghe rộn rã
Một viện gió thổi, tàu chuối khua xào xạc tiêu điều
Phía bắc Hoành Sơn, mười miệng kêu đói
Gó đông thành vua, một thân nằm bệnh
Các bạn quen biết lấy làm lạ tại sao ta sầu mộng
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng?


Dịch thơ: Tình cờ đề vịnh


Thềm vua vắng bạc màn đêm

Nhà sâu thăm thẳm buông rèm cửa khuya

Vườn tiêu xào xạc gió về

Nhà nhà đập vải chày nghe rộn ràng

Mười con đói bắc Đèo Ngang
Đông  thành ôm bệnh bố càng xót xa

Hay sầu bạn lạ về ta

Ai người thiên hạ không là trong mơ ?

                              Đỗ Đình Tuân
                                (dịch thơ)
Chú thích:
(1) Bạch địa: Không có gì cả, trống trơn. Cũng như nói bạch đinh, bạch phủ, bạch diện, v.v. Chớ không phải đất trắng.
(2) Đinh đông: Tiếng lục lạc rung, tiếng chày nện, nghe nhịp nhàng, rộn rã.
(3) Thập khẩu: Mười miệng, tức 10 người. Nguyễn Du có 3 người vợ. Bà chánh thất sanh được 1 trai, bà kế thất sanh được một trai. Người thiếp sanh được 10 trai và 6 gái.
(4) Đế Thành: Thành Huế. NGuyễn Du vào làm quan ở Huế từ năm 1805 đến năm 1809 thì bổ ra Quảng Bình làm chức Cai Bạ. 


24/5/2014
Đỗ Đình Tuân 
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét