Dịch Bắc hành tạp lục: Bài 62


Bài 62

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2
耒陽杜少陵墓其二
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2
每讀儒冠多誤身,
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân 1,
天年一哭杜陵人。
Thiên niên nhất khốc Ðỗ Lăng nhân.
文章光燄成何用,
Văn chương quang diệm thành hà dụng,
男女呻吟不可聞。
Nam nữ thân ngâm 2 bất khả văn.
共羨詩名師百世,
Cộng tiển thi danh sư bách thế,
獨悲異域寄孤墳。
Ðộc bi dị vực ký cô phần.
扁舟江上多秋思,
Biên chu giang thượng đa thu tứ,
悵望耒陽日暮雲。
Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân
Dịch nghĩa: Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương (kỳ II)

Cứ đọc mũ nho đem lại nhiều ngộ nhận cho bản thân
Nghìn năm còn khóc ông Đỗ Lăng
Văn chương sáng đẹp thì làm gì
Trai gái rền rĩ than thở không nghe thấy
Cứ ham thích thi danh, muốn làm thày trăm đời
Thì chỉ một mình buồn riêng trong nấm mồ thôi
Thuyền nhẹ trên sông nảy nhiều suy nghĩ về mùa thu
Buồn bã trông mây chiều Lỗi Dương.

Dịch nghĩa: Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lối Dương (kỳ II)


Cứ đọc mũ nho lụy đến người

Nghìn năm thương khóc Đỗ Lăng ơi

Văn chương sáng đẹp làm  chi đó

Trai gái than sầu chẳng đến tai

Cứ hám danh thơ thày bách thế

Đành riêng buồn tủi nấm mồ thôi

Trên sông thuyền nhẹ nhiều thu tứ

Lặng ngắm mây chiều buồn bã trôi.

                           Đỗ Đình Tuân
                              (dịch thơ)
Chú thích:
1. Đây là một câu thơ trong bài Phụng tặng Vi Tả thừa trượng thập nhị vận của Ðỗ Phủ.
2. Trong bài Càn Nguyên trung ngụ Ðồng Cốc huyện tác ca thất thủ (Năm Càn Nguyên ở huyện Ðồng Cốc, làm bảy bài ca) có đoạn tả cảnh mùa đông, Ðỗ Phủ đầu bạc tóc rối đi đào khoai rừng. Nhưng tuyết xuống nhiều quá, phải về không: "Nam nữ thân ngâm tứ bích tịch" (Con trai gái kêu đói, bốn vách lặng ngắt). Nguyễn Du, trong tập Namtrung tạp ngâm 南中雜吟, bài Ngẫu đề 偶題 có một câu tương tự: "Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc" 十口啼饑橫北. Quách Tấn dịch là: "Mười miệng đòi cơm ngoài cõi bắc" (Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang 140).
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét